* Công chứng viên “tay không bắt giặc”?
Trong hệ thống tư pháp của quốc gia, công chứng viên được coi như những “Thẩm phán phòng ngừa”, là hàng rào quan trọng để bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia giao dịch dân sự. Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh. Để thực hiện nhiệm vụ của mình, pháp luật quy định những điều kiện khắt khe về đạo đức, năng lực chuyên môn và kinh nghiệm của công chứng viên. Sau khi có bằng cử nhân Luật, một người cần thêm từ 5 đến 7 năm học tập và tích lũy kinh nghiệm mới đủ tiêu chuẩn trở thành công chứng viên. Thế nhưng, những điều kiện về chuyên môn và kinh nghiệm chỉ là điều kiện cần; hoạt động công chứng không thể hiệu quả nếu công chứng viên không được trang bị những công cụ phù hợp để thực thi nhiệm vụ.
Xem lại các giáo trình đào tạo nghề công chứng; tham gia các buổi bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng liên quan đến phân biệt hồ sơ, giấy tờ thật, giả thì thấy rằng những kiến thức mà công chứng viên được trang bị, đồng thời được áp dụng phổ biến nhất vẫn chỉ là quan sát bằng cảm quan và suy luận logic. Những kỹ thuật nhận diện này đã lạc hậu nhiều chục năm so với kỹ thuật và công nghệ làm giả hồ sơ, giấy tờ. Để có thể phân biệt được hồ sơ, giấy tờ thật hay giả một cách hiệu quả thì công chứng viên cần phải có các thiết bị phân tích, hỗ trợ, các mẫu tàng thư để so sánh, các cơ sở dữ liệu, thông tin để đối chiếu kết hợp với kinh nghiệm và kỹ năng hành nghề. Ví dụ, để xác định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thật hay giả, thông tin có chính xác hay không thì ngoài việc quan sát, công chứng viên cần tiếp cận được với thông tin từ cơ quan cấp giấy chứng nhận; để xác định nhân thân của một người, ngoài việc kiểm tra giấy tờ tùy thân, công chứng viên cần đối chiếu được thông tin đó với cơ sở dữ liệu công dân; để xác định một bộ hợp đồng mua bán nhà chung cư là thật hay giả, công chứng viên cần phải kiểm tra được thông tin từ chủ đầu tư. Tuy nhiên, không có bất kỳ quy định nào của pháp luật cho phép công chứng viên có được “đặc quyền” hơn công dân bình thường trong việc tiếp cận với những dữ liệu nêu trên, mặc dù công chứng viên là một chức danh tư pháp và mục đích tiếp cận thông tin là để bảo đảm cho việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của công chứng viên, bảo đảm an toàn pháp lý cho công dân, cho xã hội, trong đó có cả các cơ quan quản lý nhà nước.
Công nghệ làm giả giấy tờ hiện nay đã đạt đến mức tinh xảo, các loại mẫu khó làm giả nhất như tiền hay tem chống hàng giả cũng bị làm giả. Các tài liệu thông thường như con dấu, chữ ký vào bản in trên giấy trắng có thể bị làm giả và dễ dàng qua mặt các công chứng viên lành nghề nhất. Ngay cả Viện Khoa học kỹ thuật hình sự, với các mẫu so sánh và thiết bị hiện đại thì việc phát hiện tài liệu giả cũng khó khăn và mất nhiều thời gian. Vậy mà theo quy định của Luật Công chứng, chỉ với thời hạn tối đa 2 ngày (trên thực tế thông thường là chỉ vài phút) công chứng viên phải xác định được một hoặc nhiều tài liệu là thật hay giả để công chứng cho công dân – như vậy thì không thể bảo đảm rằng việc phân biệt được các tài liệu thật hay giả đạt độ chính xác tuyệt đối.
Rất dễ nhận thấy rằng, trước vấn nạn giấy tờ giả thì các công chứng viên đang phải làm nhiệm vụ trong tình trạng “tay không bắt giặc”.
** Bất cập trong quy định về trách nhiệm của công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng.
Theo quy định của Luật Công chứng hiện nay, mối quan hệ cung cấp dịch vụ công chứng được liệt kê bao gồm tổ chức hành nghề công chứng (bên cung cấp dịch vụ) và người yêu cầu công chứng (bên sử dụng dịch vụ). Thuật ngữ “người yêu cầu công chứng” được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các bên tham gia giao dịch dân sự mà công chứng viên sẽ công chứng. Giả sử trong một giao dịch mua bán nhà thì cả bên mua nhà và bên bán nhà đều được gọi chung là “người yêu cầu công chứng”. Liên quan đến trách nhiệm bảo đảm tính chính xác, hợp pháp của hồ sơ, giấy tờ công chứng, Luật Công chứng quy định thuộc về người yêu cầu công chứng (Điều 47) và nhấn mạnh bằng một điều cấm (Điều 75), kèm theo các hình thức chế tài áp dụng cho người yêu cầu công chứng nếu có hành vi cung cấp hồ sơ, giấy tờ giả. Như vậy trong trường hợp có thiệt hại xảy ra do sử dụng giấy tờ giả trong giao dịch công chứng thì lỗi đầu tiên và có cơ sở pháp lý rõ ràng nhất sẽ thuộc về người yêu cầu công chứng. Mặt khác, theo quy định tại Điều 38 Luật Công chứng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng chỉ được đặt ra khi có lỗi của công chứng viên hoặc nhân viên của tổ chức hành nghề công chứng, nếu việc làm giả giấy tờ là tinh vi, nằm ngoài khả năng nhận biết của công chứng viên thì không thể cho rằng công chứng viên có lỗi. Công chứng viên chỉ có thể bị xem xét trách nhiệm nếu có sự cấu kết với hành vi lừa đảo hoặc do cẩu thả, làm sai quy trình, thực hiện công chứng khi dấu hiệu giả mạo giấy tờ rõ ràng, có thể nhận biết bằng cảm quan. Do đó, nhiều ý kiến cho rằng nếu khi công chứng giao dịch, công chứng viên đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật và đạo đức nghề nghiệp, hành vi làm giả giấy tờ để lừa đảo ở mức độ tinh vi, không thể phát hiện bằng cảm quan thông thường và gây ra thiệt hại thì công chứng viên phải được loại trừ trách nhiệm.
Trên thực tế, vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên đang được hiểu và thực hiện theo một cách khác, rất bất lợi cho công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng. Một số bài viết, phóng sự trên báo chí, truyền hình, các luật sư đưa ra quan điểm làm cho người xem hiểu rằng trong mọi trường hợp nếu công chứng viên không phát hiện được giấy tờ, hồ sơ giả dẫn đến thiệt hại cho khách hàng thì tổ chức hành nghề công chứng phải có trách nhiệm bồi thường. Một số bản án đã được xét xử cũng thể hiện rằng công chứng viên phải chịu một phần trách nhiệm khi bị giấy tờ giả qua mặt. Cơ sở pháp lý của quan điểm này là Điều 584 Bộ luật Dân sự, theo đó thì chỉ cần có hành vi gây thiệt hại và có thiệt hại thì đã phát sinh trách nhiệm bồi thường chứ chưa cần xét đến yếu tố lỗi; trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ được loại trừ khi xác định rõ yếu tố lỗi hoàn toàn thuộc về bên bị thiệt hại hoặc trong tình huống bất khả kháng. Cùng với đó, tại Điều 364 Bộ Luật Dân sự nêu rõ “Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”. Quy định này đang tạo ra cách hiểu rằng hành vi công chứng của công chứng viên thỏa mãn các điều kiện cấu thành nên lỗi vô ý. Cách hiểu này gây ra nỗi hoang mang và bất an cho các công chứng viên, bởi nếu hiểu và thực hiện theo như vậy thì cứ đặt bút ký chứng nhận bất kỳ một giao dịch nào cũng đồng nghĩa với việc công chứng viên cấu thành lỗi vô ý, và mặc nhiên phát sinh trách nhiệm bồi thường khi có thiệt hại xảy ra, cho dù công chứng viên có tuân thủ hay không tuân thủ quy định của Luật Công chứng. Đây là điều hết sức vô lý, vì đòi hỏi về mức độ bảo đảm trách nhiệm của công chứng viên vượt quá khả năng kiểm soát của họ cho dù họ tuân thủ đúng pháp luật và đạo đức nghề nghiệp.
*** Rủi ro khó tránh đối với công chứng viên và cơ hội cho các đối tượng lừa đảo
Các đối tượng lừa đảo đã khai thác triệt để hai điểm yếu trên của hệ thống công chứng và có hàng loạt vụ lừa đảo gây thiệt hại lớn trong thời gian vừa qua cho các tổ chức hành nghề công chứng. Sau khi làm giả giấy tờ một cách tinh vi, qua mặt được hàng loạt công chứng viên, kẻ lừa đảo bỏ trốn, người bị thiệt hại sử dụng các biện pháp gây sức ép đòi bồi thường đối với công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng, trong đó có cả việc sử các băng nhóm xã hội đen gây rối. Nghiêm trọng hơn, tại Thành phố Hồ Chí Minh, kẻ lừa đảo đóng giả cả bên mua lẫn bên bán, sử dụng giấy tờ nhà đất giả giao dịch, qua mặt công chứng viên và cả Văn phòng đăng ký đất đai. Một số tổ chức hành nghề công chứng đã phải bồi thường bởi họ lo ngại rằng khi bị khởi kiện thì vẫn phải bồi thường mà công việc có thể bị ảnh hưởng, uy tín có thể bị tổn hại và chi phí sẽ còn lớn hơn. Công chứng viên mặc dù biết là rủi ro, nhưng họ vẫn phải làm công việc của mình mà không có cách khác để lựa chọn.
**** Làm sao để bảo đảm an toàn?
Công chứng viên gặp rủi ro với vấn nạn giấy tờ giả cũng đồng nghĩa với an toàn pháp lý của giao dịch bị đe dọa, quyền lợi của người yêu cầu công chứng và cả các cơ quan quản lý nhà nước có thể bị ảnh hưởng. Có nhiều cách để giảm bớt rủi ro từ những giao dịch liên quan đến giấy tờ giả, và cần được cân nhắc áp dụng càng sớm càng tốt.
Thứ nhất: Cần trao cho công chứng viên những công cụ làm việc, đó là quyền tiếp cận thông tin ở mức độ hợp lý đối với các cơ sở dữ liệu của các cơ quan quản lý nhà nước như cơ sở dữ liệu về đăng ký đất đai, nhà ở, cơ sở dữ liệu công dân, cơ sở dữ liệu về hộ tịch, cơ sở dữ liệu về đăng ký phương tiện cơ giới… làm được điều này sẽ chấm dứt được gần như hoàn toàn vấn nạn làm giả giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản và giấy tờ về nhân thân, những loại giấy tờ phổ biến nhất và hay bị làm giả nhất.
Thứ hai: Cần quy định rõ hơn trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng cũng như trách nhiệm của các bên tham gia giao dịch công chứng cho phù hợp với thực tế, tạo ra sự cân bằng giữa quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của công chứng viên. Công chứng viên không thể chịu trách nhiệm cho những nhiệm vụ bất khả thi.
Thứ ba: Cần xác định rõ rằng, hoạt động công chứng giúp cho giao dịch dân sự được xem xét và kiểm duyệt tính chính xác, hợp pháp bởi những người có chuyên môn và kinh nghiệm, giúp cho nó an toàn hơn, nhưng không có nghĩa là an toàn đến mức tuyệt đối. Để bảo đảm an toàn, người yêu cầu công chứng cũng cần phải có trách nhiệm nhất định với giao dịch của mình chứ không nên phó mặc toàn bộ cho tổ chức hành nghề công chứng.
Tác giả : CCV ĐÀO DUY ANH