Bà Thảo tham khảo Khoản 4, Điều 7 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP thấy có quy định cho phép cá nhân nước ngoài bán nhà ở đã mua. Tuy nhiên, Khoản 8, Điều 79 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP lại quy định việc nghiêm cấm tổ chức, cá nhân nước ngoài mua nhà ở để bán lại nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Bà Thảo hỏi, việc xác định tổ chức, cá nhân nước ngoài có kinh doanh nhà ở kiếm lời hay không căn cứ tiêu chí gì?
Trường hợp người nước ngoài sở hữu nhà thì được tự do cho thuê nhà như người Việt Nam và không có giới hạn về số lượng nhà mỗi cá nhân nước ngoài sở hữu và cho thuê khi đáp ứng các điều kiện nêu tại Khoản 2, Điều 161 Luật Nhà ở 2014. Bà Thảo muốn biết, bà hiểu quy định hiện tại như nêu trên có đúng không?
Bộ Xây dựng trả lời vấn đề này như sau:
Theo Khoản 8, Điều 79 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở, thì nghiêm cấm tổ chức, cá nhân nước ngoài mua nhà ở để bán lại nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời.
Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về việc như thế nào là bán lại nhà ở nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời, do vậy, các trường hợp cá nhân nước ngoài đã mua và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nếu không còn nhu cầu sử dụng thì được bán lại nhà ở đó theo quy định tại Khoản 4, Điều 7 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP.
Người nước ngoài sở hữu nhà tại Việt Nam được phép cho thuê
Theo quy định của Luật Nhà ở số 65/2014/QH13, cá nhân nước ngoài có sở hữu nhà ở tại Việt Nam được phép cho thuê nhà ở này mà không bị giới hạn về số lượng nhà ở được cho thuê.
Tuy nhiên, trước khi cho thuê nhà ở thì cá nhân nước ngoài phải làm thủ tục thông báo về việc cho thuê nhà ở với cơ quan quản lý nhà ở cấp huyện nơi có nhà ở theo quy định tại Khoản 2, Điều 162 Luật Nhà ở và quy định tại Điều 31 Thông tư số 19/2016/TT-BXD ngày 30/6/2016 của Bộ Xây dựng về việc hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Luật Nhà ở và Nghị định số 99/2015/NĐ-CP.
Về số lượng nhà ở mà cá nhân nước ngoài được sở hữu tại Việt Nam, nội dung này đã được quy định tại Khoản 2, Điều 161 Luật Nhà ở. Theo đó, tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu không vượt quá 30% số lượng căn hộ trong một tòa nhà chung cư; không vượt quá 250 căn nhà (nếu là nhà ở riêng lẻ bao gồm nhà biệt thự, nhà ở liền kề) trên một khu vực có số dân tương đương một đơn vị hành chính cấp phường.