3. Cuộc tấn công của Pháp vào Yên Thế qua bưu ảnh

Như entry trước đã đề cập: Bộ ảnh của Pierre Dieulefils về phong trào Yên Thế được đánh số từ 3300 đến 3354, tuy nhiên khi xếp theo thứ tự, chúng không nói lên được điều gì về diễn biến của dòng sự kiện. Một điểm cần chú ý: người Pháp dùng từ pirates (bọn cướp, bọn giặc) để chỉ nghĩa quân Yên Thế, trong khi đó dùng từ partisans (du kích) để chỉ lực lượng vũ trang người Việt tham gia cuộc chiến chống Đề Thám. 
Ngay sau vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội có sự tham gia của Đề Thám, thực dân Pháp chủ trương tập trung lực lượng tiêu diệt nghĩa quân. Tháng 1-1909, dưới quyền chỉ huy của đại tá Bataille, khoảng 15.000 quân cả Pháp và ngụy đã ào ạt tấn công vào Yên Thế. Những bức ảnh giai đoạn này của hãng Pierre Dieulefils mang mầu sắc phóng sự. Ghi chú trên các bức ảnh cho thấy ông ta đã bám theo các cánh quân (chủ yếu là trung đoàn 10, với các nhóm quân của Lecanu và nhóm Mayer) để ghi lại diễn biến của chiến dịch này
3327
3327. Une halte à hauteur de Cau Re – Groupe Lecanu. Trên đường hành quân đến Yên Thế. Nhóm quân của Lecanu dừng chân trên một ngọn đồi ở Cầu Rẽ 
3304h
3304. Escorte d’un convoi dans la foret. Yên Thế ngày đó là một vùng núi đồi cây cối rậm rạp. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm lính Pháp, lính tập và lính dõng. Cảnh hành quân qua rừng, viên sĩ quan Pháp chỉ huy đám lính địa phương kéo xe hậu cần phục vụ chiến dịch 
3315
3315. Construction du poste de Duong Vuong. Đồn bốt, hàng rào bao quanh được dựng bằng cây rừng. Cảnh xây dựng đồn Duong Vuong. 
3316f
3316. Poste de Dong Co. Construit par lieutenant Moing. Massif montagneux, cote 142. Đồn Đông Cô xây dựng trên núi. 
 3325b
3325. Soldats du 10 e Colonial construisant les tranchées du poste de Dong Co – groupe Lecanu. Binh lính trung đội 10, nhóm Lecanu đào hào trong đồn Đông Cô. 
3342
 3442. Le boucher de la colonne surnomme Raoul par nos soldats/ Le vieux Ly Nha notre guide dans le Yen The. Đến một vùng đất lạ, đang xẩy ra chiến sự, Pierre Dieulefils cần có người dẫn đường. Trên bức bưu thiếp này giới thiệu cụ thể hai nhân vật mà chắc chắn người Việt gọi họ bằng cái tên “bọn chỉ điểm” hay “Việt gian”. Bên trái: Viên đồ tể, được lính tráng gọi là bằng cái tên TâyRaoul, bên phải là Lý Nhạ – người dẫn đường cho người Pháp. 
3338g
 3338. Chef Man et les partisans operant contre le De Tham. Cách dùng chữ partisans trên các bức bưu ảnh này làm cho nhiều người lẫn lộn giữa nghĩa quân Đề Thám và lực lượng thân binh theo Pháp. Chú thích trên bức bưu thiếp này giúp làm sáng tỏ phần nào cách gọi này. “Thủ lĩnh người Mán và thân binh chống Đề Thám”. Như vậy chữ partisan (thân binh) được dùng để chỉ lính địa phương theo Pháp hoặc những hàng quân Yên Thế, còn chữ pirate (giặc, cướp)để chỉ những nghĩa quân tiếp tục chiến đấu chống Pháp 
 3339n
 3339. Le groupe de partisans Mans, appartnant au chef Pham Que Thang de Yu Nhai. Nhóm thân binh người Mán của Phạm Quế Thăng ở Vũ Nhai 
 3313
3313. Patrouille de partisans -Environs de The-Loc.Thân binh đi tuần quanh khu vực Thế Lộc. Đây thêm một minh hoạ cho nhận định trên. Thân binh được trang bị khá đầy đủ, kể cả quân phục. Trong nhiều bức ảnh chiến sự ta còn gặp lại những bộ áo sọc này. 
3301r
3301. Groupe de 8 pirates des bandes de De Tham, tués à l’affaire de Lieu De le 17 November 1908. Trong khi đó nghĩa quân bị gọi là giặc cướp (pirates). Tám nghĩa quân Đề Thám bị chết trong trận do Đề Liêu chỉ huy ngày 17 tháng 11 năm 1908 
3309k
3309. Groupe de Marsouins au poste de Mo Trang. Mỏ Trạng và Chợ Gò là hai địa điểm được P.Dieulefils phản ánh nhiều nhất trong chiến dịch tấn công Yên Thế. Nhóm “Những con cá heo” đóng quân ở Mỏ Trạng. 
3312
3312. Boucherie en plein.vent. 10 Colonial. Sinh hoạt của lính Pháp được phản ánh khá đầy đủ. Lợn gà cướp được và những nụ cười phấn chấn trong bức “Lò mổ ngoài trời.” Nếu để ý ta sẽ thấy trên chiếc sào phơi có bộ quân phục sọc của cánh thân binh.
3234h
3324. Cuisine en plein air a Mo Trang. Nán trại và nấu ăn ngoài trời ở Mỏ Trạng 
3828
3328. Cases abris definitif de nos troupiers a Mo Trang. Lính Pháp trú quân trong những túp lều như thế này ở Mỏ Trạng. 
3319k
 3319. Inspection des armes avant le combat par les soldats de la 8è Cie, 10è Colonial,Groupe Mayer. Binh sĩ trung đội 10 (nhóm của Mayer) kiểm tra vũ khí trước trận đánh 
3310
3310. Mo Trang – Les blesses du combat du 11 fevrier 10 colonial. Ngày 11 tháng Hai năm 1910 diễn ra trận đánh rất ác liệt giữa quân Pháp và nghĩa quân Yên Thế. Trung đội 10 chịu nhiều thương vong. 
3308t
3308. Blesse du 10 colonial au combat du 11 fevrỉe, quitant le poste de Motrang, Caporal Guibert. Có cả danh tính những người lính tham gia trận đánh này trên bưu ảnh của P. Dieulefils. Hạ sĩ Guilbert, trung đội 10 bị thương trong trận 11 tháng Hai đang rút khỏi đồn Mỏ Trạng. 
 3843
3843. Un convoi de blesses apres le combat du 11 febrier 1909. Cảnh tải thương sau trận tấn cồng ngày 11.02.1909
 3323c
3323. Motrang – Mise en bière des sergents Casanova et Boubault tués dans le combat du 11 février, 3eme tirailleurs tonkinois. Toán lính tập khâm liệm các lính Pháp đồn Casanova và Boubault chết trận ngày 11 tháng Hai. 
3311n
 3311. Transport à Motrang d´un partisan tué le 11 février. Tuy quen địa hình, địa vật, nhưng lực lượng lính địa phương cũng chịu nhiều tổn thất. Cảnh đưa xác một thân binh tử trận ngày 11 tháng Hai 1910 ở Mỏ Trạng. 
 3326h
3326. Tetes de pirates de la bande de Huinch tues dans le combat du 11 fevrier, Colonne Mayer. Phía nghĩa quân Yên Thế cũng chịu tổn thất nặng nề. Thủ cấp những nghĩa quân chết trận bị bêu ở đường làng để uy hiếp tinh thần người dân.
 3318g
3318. Cho Go Un partisan blessé apporté dans le fortin du De Tham. Trận đánh ở Chợ Gò cũng ác liệt không kém. Cảnh lính Pháp và lính tập đang chăm sóc một thân binh bị thương khi tấn công thành luỹ của Đề Thám. 
 3317c
3317. Partisan blesse transporte sur une litiere fortin du De Tham. Một thân binh bị thương được tải đi bằng những chiếc cáng lót rơm. Trong khu thành lũy đã thất thủ của Đề Thám thấp thoáng bóng những chiếc áo sọc. 
 3305n
3305. Tranchees creusees par les pirates dan la forest. Công sự của nghĩa quân trong rừng. 
 3330g
3330. Retranchements et mur d’enceinte du fortin du De Tham a Cho Go. Trận chiến nơi đây đã đi qua. Người Pháp chú ý đến cách xây dựng những hào lũy, tường vây công sự trong căn cứ của Đề Thám ở Chợ Gò 
 3322h
3322. Pirate amene a Cho Go pour etre interroge par l’interprete officiel de la colonne. Một nghĩa quân bị bắt làm tù binh ở Chợ Gò bị dẫn giải đi hỏi cung thông qua người phiên dịch.
 3307
3307. Interrogatoire d´un pirate à Cho-Go. Việc hỏi cung các nghĩa quân bị bắt nhằm truy đuổi đội quân của Đề Thám đang rút chạy. 
 3306d
 3306. Porte de entrée du fortin de De Tham à Cho Go. Quân Pháp ngạo nghễ trên thành lũy của Đề Thám ở Chợ Gò 
 YenThe1_Cho_Go
Hai bức ảnh này của trung uý Romain Desfossés chụp thành Chợ Gò từ bên ngòai và bên trong khi quân Pháp dành thắng lợi
 de_tha1m_fortin
(còn nữa)