Ải Nam Quan trong hiện tại (2)

2) Từ “cột Km số 0” đến “điểm nối ray”
Chiều ngày 28.1.2002, ông Lê Công Phụng (lúc đó là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) đã dành cho nữ phóng viên Thu Uyên của trang web VASC Orient[1] một cuộc phỏng vấn về vấn đề biên giới Việt-Trung. Bài trả lời phỏng vấn này xuất hiện trên Internet không được bao lâu thì bị bóc gỡ, nhưng nhiều người ở hải ngoại đã kịp chép lại để lưu trữ và cho tới nay vẫn được lưu truyền trên Internet, không thấy ai chính thức lên tiếng phủ nhận.
3. Việt Nam mất bao nhiêu đất đai ở khu vực Hữu Nghị Quan?
Trong bản bị vong lục, ngay ở đoạn kế tiếp, sau khi đã tố cáo việc Trung Quốc phá hủy “mốc biên giới số 18”, dời “cột ki-lô-mét 0” và đưa “điểm nối ray” vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam, còn có một đoạn tiếp theo: “Như vậy họ đã lấn chiếm một khu vực liên hoàn từ đường sắt sang đường bộ thuộc xã Bảo Lâm, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn của Việt Nam dài 3,1 km và vào sâu đất Việt Nam 0,5 km.”[10]
Đoạn này là một đoạn văn cực kỳ khó hiểu, vì trong bản bị vong lục không in kèm tấm bản đồ nào. Người ta có thể đặt câu hỏi: tại sao khu vực lấn chiếm lại dài đến 3,1 km và lấn sâu đến 0,5 km (tức 500 m) trong khi ở đoạn trên, chỉ nói đến con số cao nhất là hơn 300 m? Để có thể hiểu được ý nghĩa của đoạn văn này, có lẽ phải nhờ đến một tấm bản đồ đã được lưu truyền từ nhiều năm qua trên mạng Internet nhưng không ai có thể hiểu rõ được nội dung (ảnh 11). Đó là tấm bản đồ của khu vực được gọi tên là khu vực 249 C (Hữu Nghị Quan). C là ký hiệu mà hai bên đàm phán (Việt Nam và Trung Quốc) dùng để chỉ các khu vực có sự tranh chấp.
Khi công bố tấm bản đồ này, trang mạng Diễn đàn ở Pháp đã cho biết tấm bản đồ được đính kèm với một bản thông báo “mật” đề ngày 31.3.2002, có chữ ký của ông Phan Diễn, lúc đó là ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban bí thư Trung ương của ĐCSVN [11]. Chúng ta có thể tin rằng đây là một tấm bản đồ do Trung Quốc vẽ nhưng đã được dùng một cách chính thức trong công tác phân định ranh giới nhằm thực hiện hiệp ước biên giới được ký vào năm 1999.
Trên tấm bản đồ này, vạch màu xanh lá dùng để chỉ đường biên giới mà phía Trung Quốc đòi hỏi, vạch màu đỏ cam là đường biên giới mà Việt Nam yêu cầu (có thể đây chính là đường biên giới cũ theo Hiệp định Pháp-Thanh?); còn vạch màu tím dùng để chỉ đường biên giới hai bên đã thỏa thuận dựa trên hiệp định năm 1999. Nếu tính khoảng cách từ Hữu Nghị Quan đến cột Km 0 trên bản đồ tương đương với 200 m thì khoảng cách lấn chiếm trên tuyến đường sắt là trên 300 m, và vùng lấn chiếm của Trung Quốc (vạch màu xanh lá) tính từ đông sang tây theo chiều ngang xấp xỉ 3,1 Km. Ở khu vực phía tây-nam của Hữu Nghị Quan, chiều rộng của khu vực bị lấn chiếm ở phía tây-nam Hữu Nghị Quan có nơi lên đến 700 hoặc 800 m, nghĩa là lớn hơn con số 0,5 Km.
Để có thể nhìn rõ hơn khu vực trước Hữu Nghị Quan, tôi đã trích một phần của tấm bản đồ nói trên và phóng lớn hơn (ảnh 12). Để giúp độc giả dễ theo dõi, các vùng mà phía Trung Quốc vẫn còn lấn chiếm được đánh dấu bằng sọc màu tím trên bản đồ.
Nhìn vào phần trích bản đồ này, chúng ta thấy đường biên giới mới “đi qua Km0 rồi đến mốc 19 cũ và đến điểm cách điểm nối ray 148 mét về phía Bắc”, đúng như lời ông Vũ Dũng thuyết minh. Tuy nhiên, chúng ta không thể tin vào lời ông Thứ trưởng khi ông này quả quyết rằng “đường biên giới lịch sử tại khu vực này không những đã được tôn trọng mà còn được cụ thể hoá bằng một hệ thống cột mốc mới hiện đại.” Bởi vì căn cứ vào tấm bản đồ này, chúng ta thấy trên tuyến đường bộ, cột Km số 0 đáng lẽ nằm cách Hữu Nghị Quan 100 m (điểm A) đã bị dời đến một điểm cách Hữu Nghị Quan hơn 200 m (điểm B) và cho đến nay, Trung Quốc vẫn không chịu trả lại diện tích đất đã lấn chiếm. Trên tuyến đường sắt, đường biên giới đáng lẽ nằm ở điểm C đã bị dời đến điểm E – cách biên giới cũ hơn 300 m. Sau đàm phán, vì phía Trung Quốc chỉ trả lại 148 m, đường biên giới không thể trở về điểm C mà đi ngang điểm D, nghĩa là vẫn còn cách đường biên giới cũ hơn 152 m.
Quả đồi mà chúng ta thấy trong tấm ảnh 13 tương ứng với khu đất ở phía đông-nam Hữu Nghị Quan, nằm giữa các điểm A, B và C, D. Đường biên giới đáng lẽ chạy trên đỉnh hoặc sau lưng quả đồi bây giờ lại chạy phía trước, dưới chân đồi. Vào năm 2005, phía Trung Quốc đã cho đào hai đường hầm dưới chân quả đồi đó để làm đường dẫn từ Hữu Nghị Quan đến đường cao tốc đi Nam Ninh – thủ phủ của tỉnh Quảng Tây. Phiến đá nhìn thấy trên ảnh có ghi dòng chữ “ Nam cương quốc môn đệ nhất lộ” (Con đường đầu tiên đi qua cánh cửa của đất nước ở biên cương phía nam); đó là một tên gọi mỹ miều của con đường cao tốc mới xây dựng: đường cao tốc Nam Ninh – Hữu Nghị Quan (Nanning-Youyiguan Expressway [12]
Nhìn vào tấm ảnh được Bộ Ngoại giao dùng để giải thích các cột mốc mới (ảnh 14), chúng ta thấy cột Km số 0 được thay bằng hai cột mốc mới 1116 và 1117 nằm đối xứng nhau qua quốc lộ 1A. Sau đó, đường biên giới được nối liền với cột mốc 1118 ở vị trí mà ông Vũ Dũng khẳng định là vị trí của “mốc 19 cũ”. Từ cột 1118 đó, đường biên giới sẽ chạy đến một điểm cách điểm nối ray 148 mét về phía Bắc (tức điểm mà tôi ghi là điểm D trên bản đồ). Trong tấm ảnh sau đây (ảnh 15), chúng ta nhìn thấy cột mốc mới mang số 1116 – “vật thay thế” cho cột Km số 0 thời Pháp thuộc:
Người ta cố tình tạo ra vẻ hào nhoáng bên ngoài của cột mốc bằng đá hoa cương này nhằm mục đích che đậy cho việc Trung Quốc chiếm trọn ngọn đồi mà chúng ta nhìn thấy ở phía sau (tức ngọn đồi có hai đường hầm cao tốc chạy dưới chân).
Đến lúc này thì chiếc cột mốc mà ông Lê Công Phụng đã từng gọi là “cột mốc số 0” và sau đó ông Vũ Dũng đính chính lại bằng cách gọi là cột “Km 0”, đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử bạc bẽo của nó. Từ chỗ là trụ Km số 0 của ngành giao thông, nó đã từng được dùng làm “vật thay thế” cho cột mốc biên giới số 18 – do chỗ nước láng giềng vĩ đại đã “lỡ” cho xe ủi nát cái cột mốc “khó thương” này. Để chuẩn bị xóa đi dấu tích, người ta đổ thêm một lớp nhựa đường, biến nó thành một vật vừa xấu xí vừa thừa thãi! (xem ảnh 16). Rồi đây, trụ Km nổi tiếng này (thật ra là “vật thay thế”, v
ì nó không phải là cột mốc biên giới, cũng không giống với trụ Km mà người ta nhìn thấy vào năm 2002, và càng không thể giống với trụ Km của thời Pháp thuộc) sẽ được “phi tang” để người đời sau không còn nhìn thấy cái tang vật có liên quan đến một vụ cướp đất diễn ra ngay trước Hữu Nghị Quan trong thế kỷ 20.
Thật ra, không có gì bảo đảm rằng cột mốc số 19 “vẫn còn tồn tại và nằm đúng vị trí cũ” – như lời ông Vũ Dũng đã khẳng định. Hơn thế nữa, căn cứ vào tấm bản đồ 249 C, chúng ta thấy phía Trung Quốc vẫn còn chiếm giữ nhiều vùng đất ở phía tây, tây-nam và đông-bắc của cửa quan này. Do chỗ chưa đủ tài liệu để đối chứng, chúng ta chưa thể xác định một cách chắc chắn ý đồ của việc lấn chiếm này là gì, nhưng căn cứ vào những gì đã diễn ra ở phía đông-nam của Hữu Nghị Quan, chúng ta có thể phỏng đoán mục đích của phía Trung Quốc khi chiếm các dải đất này là: chiếm các cao điểm có thể khống chế khu vực ải Nam Quan.
Như vậy, thực chất của câu chuyện lấn chiếm biên giới ở khu vực Hữu Nghị Quan không chỉ là vấn đề diện tích đất đai bị mất, mà là tầm quan trọng của “vị trí hiểm yếu” có ý nghĩa về mặt quân sự.
Nhưng đến đây thì câu chuyện lại chuyển sang một hướng khác. Qua việc tìm hiểu diện mạo và lịch sử của ải Nam Quan, chúng ta phải đặt lại vấn đề một cách rốt ráo hơn: Hữu Nghị Quan ngày nay có đúng là Ải Nam Quan ngày xưa hay không?
(Còn nữa)
Mai Thái Lĩnh
———
[1] Trang mạng này (có địa chỉ http://www.vnn.vn) do Công ty phát triển phần mềm VASC – một thành viên của Tổng Công ty Bưu Chính Viễn thông VNPT khởi xướng, cũng chính là tiền thân của trang mạng VietNamNet hiện nay (địa chỉ: http://vietnamnet.vn).
[2] Bài phỏng vấn ông nguyên Thứ trưởng Lê Công Phụng do phóng viên Thu Uyên của VASC Orient thực hiện vào ngày 28.1.2002. Tài liệu trích từ Mạng Ý kiến: http://www.ykien.net. Mặc dù trang web Ý kiến bị phá hoại, vẫn có thể đọc bài này tại địa chỉ: http://home.scarlet.be/mykvn/bnpvhiepdinh.html
[3] Bđd
[4] Việt-Trung đã phân giới những khu vực nhạy cảm như thế nào?, VietNamNet, thứ Tư 25/02/2009”: http://vietnamnet.vn/chinhtri/2009/02/831965/
[5] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1979, tr. 10.
[6] Memorandum: còn được dịch là giác thư, một văn bản ngoại giao không có chữ ký thường được công bố để nói rõ lập trường chính thức của bộ ngoại giao của một quốc gia về một vấn đề nào đó.
[7] “Việt-Trung đã phân giới những khu vực nhạy cảm như thế nào?”, bđd.
[8] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, sđd, tr. 10.
[9] Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu,
Trái tim lầm chỗ để trên đầu…
(Thơ Tố Hữu)
[10] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, sđd, tr. 10.
[11] Tấm bản đồ này được công bố trong bài viết của tác giả Nguyễn Ngọc Giao: “Nam Quan: Ải, cửa ải và biên giới”, Diễn đàn, số 128, tháng 4 – 2003). Bài này và bài “Từ Nam Quan đến Bản Giốc”, Diễn đàn, số 129 (tháng 5 – 2003) của cùng tác giả hiện nay không còn được lưu giữ trên trang mạng nói trên. Nhưng tấm bản đồ số 249 C đã được nhiều tác giả khác sử dụng. Có thể xem trong bài: Trương Nhân Tuấn, “Vấn đề báo Du Lịch tạm đình bản hay là mối nhục Nam Quan”, Thông Luận, 19.4.2009:
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=3699
[12] Đường cao tốc này, khánh thành vào cuối năm 2005, được coi là “đường cao tốc đầu tiên nối liền Trung Quốc với các nước ASEAN”. Thường được các hãng du lịch của nước ta gọi tên là “đường cao tốc Trung Quốc – ASEAN”.