Nam Phương Hoàng Hậu – Câu chuyện một con tem

Nam Phương Hoàng Hậu – Câu chuyện một con tem


NGUYỄN VĂN LỤC

Nam Phương Hoàng Hậu

Nam Phương Hoàng Hậu

Cách đây hơn nửa thế kỷ, đúng ra là vào khoảng những năm 1943-1946 gì đó, tôi đang chỉ là một chú bé nhà quê. Thế giới chung quanh tôi chỉ có mẹ và mấy chị. Nhưng không nhớ bằng cách nào, tôi được nhìn thấy hình Hoàng Hậu Nam Phương trên mấy con tem . Chỉ bằng mấy con tem đủ ấp ủ hình ảnh người phụ nữ hiền lành, phúc hậu đến cả đời. Hình ảnh con tem đó cứ như thế giữ mãi trong lòng, trong ký ức chả quên được. Con tem nhỏ xíu hình một người phụ nữ, chít khăn vàng, áo dài. Quá nhỏ để nhận ra chân dung người đó, cũng quá nhỏ để biết được con người. Vậy mà hình ảnh đó có sức thu hút, đeo đuổi mãi cho đến bây giờ. Ký vãng sự việc thì có thể quên. Nhưng dấu ấn tình cảm, niềm kính trọng người phụ nữ đó thì không. Hình ảnh qua con tem nhỏ bé toả ra sự uy nghiêm, trang trọng, quý phái, nhưng dung dị hiền từ. Dôi mắt có vẻ buồn, Sốn mũi cao. Đẹp không chê vào đâu được. Vẻ đẹp kín đáo, nhưng có sức thu hút khó quên được. Hỏi nhiều người cỡ tuổi tôi cũng đều nhận như thế. Nhưng nó lại không có cái nét kiêu kỳ hãnh tiến như những người sang trọng giầu có. Nhất là con mắt có cái nhìn thẳng thắn, đầy độ lượng. Nhiều người sau này nhìn ảnh Hoàng Hậu sau cũng phải nhận một điều: Hoàng Hậu có nét uy nghi, đoan trang và phúc hậu. Chỉ tội buồn.

 Tem Việt Nam Cộng Hòa Từ 1950 Đến 1954

Tem Việt Nam Cộng Hòa Từ 1950 Đến 1954
Nam Phương ; Hòang Hậu cuối cùng của Viet Nam

Sao Hoàng Hậu
lại buồn thế

Xin dẫn một chứng từ của một cô nữ sinh thời 1937-1941 nhắc lại kỷ niệm gặp gỡ Hoàng Hậu Nam Phương, viết trong tập san Dồng Khánh : Hànội, mái trường thân yêu. Dược sĩ Nguyễn thị Huyền, vửa mất năm ngoái đã viết lại cảm tuởng của mình như sau: "Ngày Bà Nam Phương đến thăm lớp, cô Thục Viên, giáo sư Pháp Văn vẫn đứng trên bục giảng chìa tay đứng bắt tay Hoàng Hậu và từ tốn trả lời các câu hỏi của Hoàng Hậu, không hề mất chủ động. Trong khi đó Nguyễn tiến Lãng, người đi cùng Hoàng Hậu muốn tâu gửi gì với Hoàng Hậu đều quỳ xuống đất. Cô xin phép tiếp tục giảng. Hoàng Hậu dự giảng và sau đó cho gọi học sinh giỏi Văn lớp là chị Nguyễn thị Thứ lên thưởng cho một bức ảnh do Hoàng Hậu ký tên. Thái độ đường hoàng của cô đã gây cho chúng tôi một niềm tự hào chính đáng, trong lúc ấy chúng tôi cũng thích vẻ đẹp dịu dàng Dông Phương và thái độ bình tĩnh không có vẻ gì hách dịch của Nam Phương Hoàng Hậu". Một trong những học trò có mặt bữa hôm ấy là cô Ngô thị Ngà, nguyên giáo sư Trưng Vương đã cho biết cảm tưởng : Mê cái vẻ đẹp dịu dàng của Hoàng Hậu và vì thế sau này cô đặt tên cho một cô con gái là Thu Phương, tức Hương mùa thu nhắc nhớ đến tên Hoàng Hậu Nam Phương, hương miền Nam.

Hôm nay ngồi viết lại một chút cuộc đời Bà mà hình như Bà đang ngồi trước bàn máy. Sự biết về Bà quá ít, mầy mò sách vở đủ loại, lục lọi chỗ này chỗ kia cũng chỉ là những mảnh vụn rời rạc, cũng không thấy bóng dáng Bà đâu cả. Cũng chả thu thập được nhiều nhọm gì. Người đời coi ra vô tình với Bà đã đành, sách vở sử học cũng vậy.

Ngay trong hồi ký của vua Bảo Đại, "Le Dragon d'Annnam", tôi đã lật đi lật lại nhiều lần, chỉ thấy loáng thoáng từ trang 62 đến 68 nói về cuộc hôn nhân của nhà vua hơn là nói về Hoàng Hậu. Tôi đành lòng với một ít tài liệu trong báo Indochine vào những năm 1942-43-44 với vài bài của Nguyễn Tiến Lãng và một vài người bạn Pháp của gia đình. Bài viết về Bà của Cù huy Cận không có trong tay. Cuốn sách quan trọng của Phạm khắc Hoè Từ Triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn chỉ được đọc những đọan trích dẫn mà nội dung quả thực khiếm nhã và tuyên truyền nhiều hơn là sự thực. Một số bài báo trên các báo chí hải ngoại thường viết thiếu dữ kiện khả tín, viết cho có mà thôi.

1. THỜI CON GÁI

Cô Nguyễn Hữu thị Lan Marie Thérèse là con một nhà điền chủ, đất Gò Công. Bố được Tây cho đi học ở Pháp về, rồi mở đồn điền trà và cà phê ở cao nguyên Trung phần. Các điền chủ khác thường ít chữ nên chỉ loay hoay với ruộng, vườn tược, sống nhờ bổng lộc từ đó mà ra. Nhưng ông bà Nguyễn Hữu Hào có vốn Tây học, có đầu óc nên mới nghĩ đến khai thác đồn điền. Vào thời kỳ đó, khoảng những năm 1920-30, báo Nam Kỳ địa phận ra hàng tuần đã khuyến khích người Annam khai thác đồn điền, mở mang kinh doanh, kỹ nghệ để cạnh tranh với người Tây và cả với
người Tầu như trong lời mở đầu của tờ báo: “Tờ báo có ý khai đàng văn
minh cho nhân dân đặng tấn phát cho bề đạo việc đời đều thông thuộc. Vì
thế trong nhựt báo sẽ biện luận về những điều đạo lý, phong hóa, bá
nghệ, bác học và văn tin… nên sự gì tốt và hữu ích thì đem đặng vô hết’”. (Trích lại trong bài Chữ Quốc Ngữ, giai đoạn sơ khởi của chính tác giả).

Nhà chỉ có hai chị em, chị là Agnès Nguyễn Hữu Hào đã hẳn có nếp sống văn minh thành thị của lớp dân giầu có. Cuộc sống hai chị em cứ khách quan mà nói là sung sướng, đầy đủ, được cưng chiều. Họ đã sống tuổi thanh xuân êm đềm và mơ mộng. Và có lẽ đó là giai đoạn hạnh phúc nhất đời của người thiếu nữ sau này làm Hoàng Hậu. Theo những bức hình chụp trong tờ Indochine, 1943, thì cả hai chị em đều cao lớn hơn hẳn những người phụ nữ Việt Nam bình thường. Tôi mê bức ảnh Hoàng Hậu chải tóc rẽ, vấn khăn và nhìn nghiêng bên trái, không nhìn thẳng. Những bức ảnh mặc đầm, hay những bức ảnh mặc triều phục, hoặc ngay cả ngày cưới coi cũng được được vậy thôi. Theo cách nhìn của tôi, có nhẽ cô Agnès không lấy gì làm xinh xắn lắm, gương mặt xương xương, thiếu đầy đặn. Nhất là thiếu cái nét đoan trang, dịu hiền như cô Lan. Tôi cứ nghĩ, phải cám ơn ông cái ông Tây nào đó đã chụp những bức hình mà Nam Phương Hoàng Hậu đẹp như thế, lột được cả cái hồn, cái phần sâu thẳm của đời sống bên trong. Sau này, hình ảnh những phụ nữ mà tôi quý mến phải là bản sao hình ảnh Hoàng Hậu. Phần cô Agnès, có vẻ Tây hơn. Cô đã lấy chồng sớm, học hành chẳng hiểu đến lớp nào. Ông chồng là bá tước Didelot, làm công chức cho Tây. Cả quãng đời tuổi thanh xuân này, gần như không có một ai có thể hé lộ cho biết đời sống hai tiểu thư ra sao.

Nhưng dựa vào một vài sự kiện mà suy đoán thôi. Chẳng hạn, trong một bài viết của ông Nguyễn Tiến Lãng, con rể cụ Phạm Quỳnh sau này đăng trên tờ Indochine có kể rằng, trước ngày đám cưới thì hai chị em đến ở một căn nhà của gia đình ở đường Nguyễn Du bây giờ, ức quá không nhớ số, trước ngày ra Huế. Điều đó cho thấy, các cô ở Sài Gòn để đi học chứ không ở Gò Công. Thời đó, Sài Gòn chỉ rộng như cái bàn tay. Nhỏ lắm. Bé lắm. Qua khỏi bến Nhà Rồng, sang Khánh Hội là lau sậy. Qua khỏi Nancy, chợ Quán là đồng không mông quạnh. Chưa tới cầu Trương Minh Giảng đã là bãi sình rồi. Các tiểu thư ở đường Nguyễn Du, mỗi sáng đi nhà thờ thì băng qua đường Lê Văn Duyệt, tới đường Bùi Thị Xuân chừng nửa cây số là tới nhà thờ Huyện Sĩ. Nhà thờ này theo thói quen lấy tên ông Huyện Sĩ hay Lê Phát Dạt vì chắc là ông đã công hiến nhiều để xây dựng nhà thờ. Ông Huyện Sĩ lại là bác ruột các tiểu thư.

Nếp nhà như vậy, vừa giầu có, vừa có ăn học, vừa theo nếp sống Tây phương với tư tưởng tự do phóng khoáng đã hẳn khác với các “công tử Bạc Liêu” về lối sống, lối nghĩ, lối giải trí. Lớn lên, cô chị đã yên một bề chồng con, phần Hoàng Hậu tương lai được cha mẹ gửi sang Pháp học trường Couvent des Oiseaux. Có dư luận lẫn lộn Couvent des Oiseaux bên Pháp với bên này, nhân tiện xin làm sáng tỏ thêm vấn đề này. Nói thêm chút nữa để chứng tỏ mình có chút uyên bác. Hồi Bà học Couvent bên Pháp nhà trường hẳn nằm ở phố Ponthieu và Verneuil. Theo Daniel Grandclément, nhà trường lại nẳm ở Neuilly. Nhưng hỏi Ponthieu hay ở Neuilly ở đâu thì quả tình mù tịt không biết. Có sách ghi cô đỗ tú tài Tây rồi mới về, điều này cũng không khẳng định rõ được. Bảo Đại chỉ ghi: ”Cô vừa học xong chương trình học của cô ở Couvent des oiseaux, bên Pháp”. Tất cả thời gian này, không một ai biết cuộc sống người thiếu nữ Tây học, duyên dáng, hiền thục ra sao. Chỉ biết, cô đã về nước năm 18 tuổi.

2. CUỘC HÔN NHÂN CỦA CÔ NGUYỄN HỮU THỊ LAN

Cuộc gặp gỡ lần đầu

Có một câu hỏi được đặt ra là cô Nguyễn Hữu Thị Lan đã quen và gặp Bảo Đại trong trường hợp nào và ở đâu. Có một số tác giả cho rằng họ quen nhau trên cùng một chuyến tầu thủy của hãng Messagerie Maritime về nước như một cuộc tình duyên kỳ ngộ, lãng mạn. Một hoàng tử gặp giai nhân trên một chuyến tầu, yêu nhau rồi quyết định chuyện hôn nhân. Trên tờ Indochine, có một vài bài viết của ông Nguyễn Tiến Lãng, một người thân cận của Hoàng Hậu, nhưng tôi cũng không thấy đoạn nào nói rõ về vấn đề này. Cho dù có đi cùng chuyến tầu không chắc gì đã có thể gặp nhau. Bảo đại chắc ở một khu vực riêng mà không ai có cơ hội tới gần. Nếu có chuyện đó thì vua Bảo Đại hà cớ gì lại không nhắc đến trong hồi ký trích dẫn sau đây. Dù sao, tôi cũng chẳng dám cả quyết gì về điều này. 

Nhưng căn cứ vào tập hồi ký “Le Dragon d’Annam” của vua Bảo Đại là đúng nhất. Vua Bảo Đại cho biết ông đã gặp Nam Phương Hoàng Hậu ở Đà Lạt, chứ không phải ở trên tầu, ông đã gặp vào cuối năm 1932. Xin trích dẫn ý của vua sau đây: ”Vào dịp cuối năm, tôi có lưu lại vài ngày ở Đàlạt cùng với Toàn Quyền Pasquier, trong dịp gặp ông này ở phòng khách, khách sạn Langbian Palace, ông có giới thiệu một cô gái trẻ do bà Charles dẫn theo, cô Marie Thérèse Nguyễn Hữu Hào, cô thuộc một gia đình điền chủ giầu có ở xứ Nam Kỳ. Cô là người công giáo và vừa học hết chương trình học của cô ở trường Oiseaux, bên Pháp. Cô 18 tuổi". (Sách đã dẫn trang 63). Đọc đọan văn trên, thấy có gì là lạ. Chẳng hiểu tại sao cả đám người tai to mặt lớn lại không hẹn mà gặp nhau ở Đà Lạt. Có bà Charles, người đỡ đầu cho Bảo Đại đi cùng với cô Lan, bà lại là bạn của gia đình Nguyễn Hữu Hào. Có bài viết nói ông Lê Phát Đạt dẫn cháu gái đến ra mắt Bảo Đại. Cô cháu gái lại không muốn đi, phải ỉ ôi năn nỉ chán mới chịu đi, ăn mặc sơ sài thôi. Tôi thiết nghĩ, ông Đạt không đủ tư cách để đường đột dẫn cháu gái ra mắt Hoàng Thượng, nếu không có một sắp xếp trước. Cùng lắm ông chỉ là người thừa hành thôi. Đích thị là có sắp xếp trước, có toan tính trước giữa bộ ba toàn quyền Pasquier, ông bà Hào và chủ chốt là bà Charles. Sau này, chính Bảo đại đã xác nhận vai trò trung gian của ông bà Charles trong cuộc hôn nhân này. Cho dù trước đó có gặp nhau trên tầu trên bè gì cũng không quan trọng. Sau buổi gặp gỡ ở Đà Lạt, kể như định mệnh đã được an bài rồi. Sự sắp xếp này cũng rất bình thuờng và tự nhiên ở cương vị của Bảo Đại. Vấn đề chính là họ đã yêu nhau và quyết định đi đến hôn nhân: ”Sau vài dịp gặp gỡ, một tình cảm êm dịu đã nảy sinh giữa chúng tôi. Chúng tôi đã quyết định gặp lại nhau."

Cho dù cuộc hôn nhân có sự sắp xếp, có những mưu toan chính trị, quyền
lợi ẩn dấu đi nữa thì căn bản là cả hai có yêu nhau và quyết định tiến
tới hôn nhân.

Những trở ngại của cuộc hôn nhân

Theo vua Bảo Đại, từ ngày hồi hương, rất nhiều những tin đồn chung quanh việc chọn một người vợ cho Ông. Bà Từ Cung đã đành, các vị quan lớn trong triều, mỗi người đều có người của mình để đề cử. Vua đã hẳn biết được điều đó và Ông đã nhiều lần cho biết ông quyết định không chấp nhận chế độ đa thê vẫn thường thấy ở Việt Nam, về những tệ trạng tranh dành ngôi thứ giữa anh em hoặc anh em cùng cha khác mẹ đến chỗ đâm chém nhau. Vua Minh Mạng có đến hơn 100 người con và để tránh cảnh tranh giành ngôi thứ, vua Minh Mạng đã đặt ra tên gọi theo thứ tự đến 20 đời kế tiếp nhau để những dòng họ theo đó theo thứ tự mà kế vị. Hai mươi đời đó được khắc vào tờ giấy bằng vàng và tên gọi một người như thế được
coi n giấy hộ tịch của mình.. Hai mươi chữ đó nằm trong bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt mà câu dầu gồm những chữ:

Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh
Bảo Quí Định Long Trường
Hiền Năng Kham Kế Thuật
Thể Thoại Quốc Gia Xương

Nhưng mới tới chữ thứ năm trong bài thơ thì triều đình nhà Nguyễn đã không còn nữa, mặc dầu tên của vua Bảo Đại được lót bằng chữ Vĩnh có nghĩa là muôn đời. Những ý nghĩa đó còn được tìm thấy trong những chữ tỉnh Thừa Thiên, Vạn Thọ, Long Sàng, chỗ ở của Bửu Long được gọi là Tứ Phương Vô Sự.

Đã hẳn, hai ông bà Charles, bố mẹ đỡ đầu của vua không thể không bận rộn trong việc kiếm tìm một người vợ cho vua. Cái khó là ở chỗ đó. Quá nhiều người, quá nhiều đề cử, nếu không nói là những âm mưu gây ảnh hưởng nên dễ gây bất đồng ghen tỵ, nói ra nói vô. Khi cuộc hôn nhân đã được quyết định, nhiều các cô gái trong Hoàng tộc thất vọng đến tuyệt vọng vì quyết định này.

Theo Daniel Grandclément, ông đã gặp một người anh của hai cô gái được chỉ định để chuẩn bị cuộc hôn nhân với Bảo đại. Theo người anh này, Các cô được chuẩn bị, học tập nhiều năm trước, ngay từ hồi còn nhỏ về luật lệ nội cung, về cách chăm sóc chiều chuộng ngay cả trong vấn đề chăn gối để có thể đóng vai trò làm vợ vua sau này. Đã hẳn là sau đó, các cô tuyệt vọng và chán nản vì mọi chuẩn bị sắp xếp từ nhiều năm đã không thành.

Trở ngại tôn giáo có tầm cỡ Quốc tế

Nhưng trở ngại lớn nhất là cô Nguyễn Hữu Thị Lan là người theo đạo Ky tô giáo. Theo vua Bảo Đại, khi trở về Huế, sau lần gặp gỡ ở Đàlạt, ông đã bầy tỏ ý định lấy vợ có đạo Kitô giáo và là người đã được đào tạo ở Tây phương. Nghe tin đó, hẳn nhiên là Bà Từ Cung không đồng ý vì bà mong muốn một cô dâu theo truyền thống Á Đông. Quan lại cũng ngấm ngầm và có thể công khai chống đối. Tứ phía chống đối dựa trên quyền lợi cá nhân cũng có, phe phái,miền cũng có, nại cớ nguyên tắc truyền thống cũng có.

Cô dâu “Mới Quá”. Chữ “Mới” có vang vọng muốn đồng nghĩa với thiếu văn hoá đạo đức cổ truyền. Người ta e ngại cũng phải. Cứ nói tiếng Tây líu la líu lo cũng đủ ngại rồi. Sự nghi kỵ, thành kiến tranh chấp, hiểu lầm còn đầy dẫy trong dân gian, nhất là trong đầu mỗi người. Đặt mình vào địa vị vua và hoàng hậu tương lai mới hiểu được sự cam go không thể vượt qua được của cuộc hôn nhân này. Rồi vấn đề giáo dục con cái theo đạo Ky tô giáo nữa. Con của Nam Phương Hoàng Hậu làm sao có thể rửa tội như một người Ki tô giáo bình thường. Sẽ giải quyết ra sao khi hoàng tử kế nghiệp vua phải cử hành lễ Tế Nam Giao hoặc thờ cúng tổ tiên. Lấy ai là người gìn giữ nếp sống, văn hóa cổ truyền, cúng giỗ tổ tiên của cha ông để lại.

Có một số tác giả đã viết không đúng về vấn đề này. Nhất là giới Công giáo. Chẳng hạn cho rằng vua Bảo Đại là người đã theo đạo Ki tô giáo. Thật ra đối với vấn đề tôn giáo, ông Bảo Đại rất thoáng, minh bạch và rất trung lập. Ông không theo đạo nào cả. Như ông viết: "Ở trong cung, chỉ có một ong Trời, đó là Hoàng đế, con ông Trời “ (Au palais, il n’y avait qu’un Dieu: L’empereur, fils du ciel). Vậy không bao giờ có chuyện đó.  Ngay cả các Hoàng tử, Công Chúa cũng đã không được rửa tội theo đạo Ki tô giáo. Một điều nữa, dư luận vẫn cho
rằng Hoàng Hậu Nam Phương phải xin phép Vatican rồi mới được lấy chồng. Theo hồi ký của Vua Bảo Đại, chỉ sau khi làm đám cưới xong, ông mới gửi thư cho Giáo Hoàng Piô 11 một lá thư qua trung gian người Pháp, vì thời đó ta chưa có liên lạc ngoại giao với Vatican. Nếu Hoàng Hậu muốn
xin phép thì phải gửi thư qua các cha cố, theo hệ thống nhà đạo. Theo nhà vua viết, Vua Bảo Đại gửi thư cho toà thánh không phải để xin
phép, mà để bầy tỏ lập trường và quan điểm của vua Bảo Đại. Hãy xem ông viết: ”Lá thư đó không nhằm mục đích giải quyết vấn đề hôn
nhân và việc giáo dục các con cái sau này của tôi cho bằng đặt lại
những yếu tố đã gây ra mối tranh chấp từ nhiều thế kỷ nay và tìm cách
tạo điều kiện dễ dàng cho cuộc gặp gỡ giữa hai thế giới: Tây Phương và đông Phương ở trên đất nước Annam, ”một mảnh đất cho cuộc gặp gỡ ấy ” mà qua tôi, một người đã được đào tạo từ Tây phưong sẽ là lần đầu và có lẽ lần cuối đã hội đủ những điều kiện của một sự đối đầu giữa hai nền văn minh". (trích dẫn trong Le Dragon D'Annam, S.M Bảo Đại, trang 65, Nhà xuất bản Plon, năm 1980 ). Đoạn văn trên của vua Bảo Đại giúp dẹp hết những bàn tán bên lề, những
chuyện tủn mủn thổi phồng về chuyện đám cưới của ông với cô Nguyễn Hữu
Thị Lan.

Những trở ngại mà cô dâu tương lai gặp và phải đương đầu.

Đặt mình vào địa vị Hoàng Hậu Nam Phương mới thấy thấm thía được những trở ngại, những khó khăn mà Bà phải chịu đựng. Thật quả không dễ gì lấy được một ông vua và cũng không dễ gì làm Hoàng Hậu. Nhưng lịch sử cũng cho thấy không thiếu trường hợp trước đây xứ Nam Kỳ mà có lần vua Bảo Đại đã gọi là miền đất hứa đã cống hiến cho triều
Nguyễn những người con gái tài ba và sắc đẹp:

– Bà Từ Dũ, tức cô Phạm Thị Hằng là vợ vua Thiệu Trị và là mẹ vua Tự Đức. Bà là tiêu biểu cho một lớp người phụ nữ đức hạnh, có học vấn, làm gương sáng cho mọi người trong triều đình.

– Sau đó đến bà Hồ Thị Hoa, vợ vua Minh Mạng
 
– Và cuối cùng là cô Nguyễn Hữu Thị Lan.

Tên của bà là Nam Phương Hoàng Hậu mang ý nghĩa đó, chỉ thị đó là Hương thơm của miền Nam. Tên đó biểu thị cả nết lẫn người đem lại vinh dự cho người dân xứ Nam Kỳ.

Nhưng cái khó lớn lao nhất Bà phải đương đầu vì Bà là người Công giáo.Những chỉ dụ cấm đạo hồi nào mới chỉ vừa ráo mực. Lòng người chưa ổn. Điều đó cũng chứng tỏ Bà là người có cá tính, can đảm và trung thành với đạo giáo của Bà. Giả dụ một người đàn bà khác thì sao? Sẽ bỏ tất cả, sẽ làm tất cả và bằng bất cứ giá nào để được làm Hoàng Hậu. Hiểu đến cội nguồn mới hiểu được nhân cách của Bà, cái cao quý của một nhân phẩm và cái trong sáng, ngay thẳng của một người đàn bà có giáo
dục. Chỉ về một điểm này thôi, Bà là người đáng nể trọng. Qua những
người phục vụ chung quanh vua và Hoàng Hậu sau này, mọi người không kể
bất cứ ai đều bầy tỏ lòng kính trọng và quý mến cái nhân cách của Bà.

3. NGÀY ĐÁM CƯỚI

Mọi chuyện đã xong. Dư luận cũng tạm ngưng tiếng nói. Những đám mây mù
đã tan. Phần lớn nhờ vào sự cương quyết đến cứng rắn của vua Bảo Đại.
Huế chờ đón một biến cố có một không hai trong lịch sử triều Nguyễn, một
mẫu nghi thiên hạ đến từ miền Nam với những sắc thái mới đến làm xôn
xang mọi người. Một cô gái xinh đẹp nhất miền Nam, Tây học, con nhà danh
gia vọng tộc cộng thêm là một người Ki tô giáo. Bấy nhiêu thứ đụng vào
những sắc thái truyền thống, cổ truyền đã gắn bó với Huế từ cả mấy trăm
năm nay. Huế cổ kính, Huế lãng mạn, Huế trầm mặc, Huế khép kín, Huế đẹp,
Huế thơ. Huế có tất cả, trừ một làn gió mới. Chuyện đó đã xảy ra.

Vào ngày 20 tháng 3 năm 1934, người con gái đến từ phương Nam mang theo cả cái hương thơm miền Nam đã quyết định bước qua ngưỡng cửa hoàng cung, vào Cấm Thành. Và do tình yêu gắn liền với định mệnh, một định mệnh không khỏi có trớ trêu, vào buổi sáng mùa xuân đó, cả một cuộc đời mới đã mở ra. Bỗng chốc cô trở thành Hoàng Hậu của cả nước. Từ nay, không còn ai nhắc đến cái tên Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan nữa. Cô là Nam Phương Hoàng Hậu.

Lòng chắc đầy cảm xúc suốt hành trình từ trong Nam ra Huế, chen lẫn lo âu và sung sướng, trong niềm hân hoan không gì tả xiết, mỉm cười chấp nhận những gì sắp tới xảy ra cho mình, trong cảm thức mình là người độc nhất có cái vinh dự làm Hoàng Hậu cả nước. Và trong phẩm phục áo mầu vàng, một ân huệ đặc biệt mà vua đã dành cho nàng, đầu nàng đội mũ có kết trân châu bảo ngọc, đi hia mũi nhọn, tay cầm hốt ngà tiến vào hoàng cung.

namphuonghoanghau1mx

Từ bên ngoài nhà khách trú của hoàng cung, cô đã bước lên xe hơi để đi vào Cấm Thành, qua cửa Hiển Nhơn mà hai bên có những người lính hầu, chân quấn xà cạp, đứng nghiêm chỉnh như những tượng gỗ.

Buổi lễ đã được diễn ra từ điện Cần Chánh. Hãy nghe Hoàng Thượng kể lại biến cố quan trọng này:” Vâng, tôi đã quyết định đặt vợ tôi lên làm Hoàng Hậu trong cuộc hôn nhân này, cái chức mà chỉ dành cho mẫu hậu khi mà nhà vua đã qua đời. Mặc phẩm phục triều đình với chiếc áo choàng rộng, đi giầy hài mũi cong nhọn, chít khăn có đính những viên đá quý. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nước Annam mà một người đàn bà đã tiến lên một mình giữa sự chào đón của triều đình.. Cũng vẫn chỉ một mình, cô đã vào trong đại sảnh đã có tôi đợi ở đó, và ngồi ở một cái đôn để ở thấp hơn" (trang 68). Trong suốt hơn 10 năm sống ở Huế, Bà vẫn seule như thế giữa đám thị nữ, quan thần, dòng tộc, giữa những sắc thái dị biệt miền, tiếng nói, tôn giáo, nếp sống văn hoá, học vấn. Chỉ những sự khác biệt đó thôi cũng đẩy Bà vào tư thế một mình. Và đã theo đuổi suốt cuộc đời còn lại của Bà. Ôi nhận xét của Bảo Đại trong ngày đám cưới không ngờ có tính cách định mệnh oan trái của đời Bà.

Sau đó một bữa yến tiệc đã được tổ chức tại cung An định với hơn 700 khách mời với viên Toàn Quyền Đông Dương và các Khâm sứ Trung Kỳ, Thống sứ Bắc Kỳ, Thống đốc Nam Kỳ. Sau buổi lễ, vua đã đưa Hoàng Hậu về điện Kiến Trung mà trước đó Ngài đã cho sửa chữa lại thành một cung điện có những tiện nghi mới theo những tiện nghi bên Âu châu, trong đó có phòng ăn, phòng ngủ, phòng tiếp khách, phòng làm việc.  Đặc biệt là có phòng tắm và nhà vệ sinh. Hồi còn trẻ, có dịp ra Huế khá nhiều lần, ở lâu đến một tháng hơn tháng là thường. Tôi chỉ có một thắc mắc: Chẳng biết vua chúa, cung phi đi cầu và tắm rửa ở đâu. Cả ngàn người như thế, không thấy một cái cầu tiêu nhà tắm nào. Đó là nét lạ của Huế. Ai hiểu Huế hơn thì xin chỉ cho. Hiểu ra rồi thì không khỏi buồn cười một mình. Từ nay, Hoàng Hậu ra vào
điện Kiến Trung mà trọng trách của Bà là cùng với vua cai trị thần dân, đặc trách lo về những vấn đề xã hội theo lời yêu cầu của chính vua Bảo Đại.

Để kết thúc phần này, xin dẫn lời kể của vua Bảo Đại cho thấy vai trò quan trọng của ông bà Charles trong cuộc hôn nhân này: ”Buổi chiều hôm lễ đám cưới, tôi đã mời ông bà Charles ăn bữa cơm. Sứ mạng của công việc của họ làm đã hoàn tất, Họ sẽ lên đường trở về Paris"  ( Le Dragon D'Annam của S.M Bảo Đại, trang 64).

Phải nhìn nhận ở đây, lần đầu tiên, vai trò người phụ nữ đã thay tên đổi
họ và đã hẳn, cách này cách khác đã ảnh hưởng trực tiếp trên xã hội
người phụ nữ Việt.

 4. ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH CỦA HOÀNG GIA

Hoàng Hậu là phụ nữ đầu tiên có tân học, ẳnh hưởng nếp sống, nếp nghĩ Phương Tây, trọng tinh thần dân chủ, trọng ý thức xã hội. Bà không phải là người chỉ quanh ra quẩn vào chờ cái đèn lồng tối hôm đó thắp sáng lên, rồi tíu ta tíu tít chuẩn bị son phấn, đón tiếp như một thứ đồ giải trí cho vua. Bà tham dự vào tất cả. Họp với các quan bộ lễ, bàn và nghị sự tổ chức các buỗi lễ tế Nam Giao hay lễ Vạn Thọ. Chẳng hạn, lễ Vạn Thọ khánh tiết mừng sinh nhật vua thường được diễn ra trong điện Thái
Hòa. Tổ chức lễ Bái Khanh cho mọi người có dịp bầy tỏ lòng trung thành
đồng thời chúc thọ nhà vua trăm tuổi. Ngoài đường, các học sinh đi diễn hành, tay cầm cờ Long Tinh, hát bài đăng đàn diễn hành qua cửa Ngọ Môn. Bên trong hoàng thành thì tổ chức các màn múa hát do các nữ học sinh trung học trình diễn và màn dâng hoa cho Hoàng Thượng và Hoàng Hậu. Nên nhớ là không có những màn hát hoặc tuồng tích cổ nữa. Cũng nên nhớ là con trai chỉ được đi diễn hành ngoài đường, ở ngoài hoàng thành mà thôi. Chỉ nhớ lại các buổi lễ chúc thọ vua với lề lối tổ chức, cho nữ sinh vào ca hát, dâng hoa, người ta hiểu những quyết định đổi mới đến từ đâu rồi.

Bà cũng là người phụ nữ đầu tiên ở nước ta cùng vua tiếp khách ngoại quốc như Thống chế Tưởng Giới Thạch, Quốc trưởng Shianouk. Cái mà bây giờ người ta gọi là vai trò đệ nhất phu nhân.

Bà cũng là Hoàng Hậu đầu tiên xuất cung, tham gia các sinh hoạt xã hội như đã đi thăm các cô nhi viện, trường nữ Trung học Đồng Khánh Huế, Hànội, các cô nhi viện hoac cơ sở Xã hội v.v..

Ngày chủ nhật, Bà đi lễ nhà thờ Phủ Cam như mọi người dân bình thường. Cũng là chuyện lạ. Đó là người phụ nữ theo Kitô giáo đầu tiên trong ngôi vị Hoàng Hậu, ngôi vị mà ngày nay nghĩ lại cũng khó mà tưởng ra là có thực. Sáng sớm tinh mơ, Bà ra khỏi Hoàng Cung, không ngồi kiệu với màn che phủ kín làm bà khó chịu như ngồi trong cũi. Nội điều đó thôi cũng có thể gây ra những xầm xì to nhỏ. Lần đầu tiên, trong Hoàng cung, triều đình nhà Nguyễn, vóc dáng một người phụ nữ uy nghi, đoan trang đem lại những nét đổi mới trong sinh hoạt cung đình: giản dị hoá lễ nghi, giản dị trong những tương quan giao tiếp giữa bầy tôi và chủ, tư tưỏng phóng khoáng, ngay thẳng, ghét những xun xoe xu nịnh, những lời xàm tấu. Lần đầu tiên, một người phụ nữ Việt Nam cùng vua tiếp đón các nguyên thủ quốc gia khác trong vai trò đệ nhất phu nhân như bây giờ. Toàn quyền Decoux đã hết lời khen ngợi bà là người đức hạnh, nề nếp, một sự tổng hợp hai nền văn hoá đạo đức Đông Tây. Về phía quốc tế, Hoàng Hậu đã nhận được những bằng khen của Hàn Lâm Viện Y khoa Pháp và của Hội Hồng Thập Tự Quốc tế.

Chắc chắn và không thể chối cãi được sự có mặt trong Hoàng Cung của Bà đã thay đổi bộ mặt Hoàng Cung. Nhưng điều quan trọng hơn cả, Bà trở thành biểu tượng, mẫu hình lý tưởng cho tất cả giới phụ nữ Việt Nam noi theo.. Nhất định giới phụ nữ Việt Nam nhờ vào Bà đã trở thành tấm gương để mọi phụ nữ noi theo. Hình ảnh người phụ nữ nhờ đó được cải thiện, nâng cao và đổi mới.

Bà có năm người con lần lượt là Bảo Long, Phương Mai, Phương Liên,
Phương Dung và Bảo Thắng. Ngày thái tử Bảo Long ra đời, mồng 4 tháng 01,
năm 1936 đã thi hành đúng như trong sách Hội Điển, người ta đã bắn 7
phát súng thần công để loan báo tin mừng. Phải bắn 7 phát, vì theo tục
lệ, đàn bà 9 vía còn đàn ông 7 vía.

Gia đình Hoàng gia theo lối sống mới ra bên ngoài như vua thường lái xe đi nghỉ hè ở Nha Trang, Đà Lạt… hoặc đi trên du thuyền Phi Long, đi câu cá ở biển Nha Trang để tránh nóng oi bức ở Huế. Cũng tại Đà Lạt, gia đình Hoàng gia có dịp đoàn tụ với ông bà bá tước và các con của gia đình này. Đôi khi Hoàng Hậu cũng theo vua đi câu hoặc đi săn thú rừng ở Ban Mê Thuột hay Đà Lạt.

Đây là những ngày tháng tương đối êm đềm và hạnh phúc của đời Bà.

5. NHỮNG NGÀY THÁNG ĐEN TỐI

Có được hơn mười năm êm ấm hạnh phúc. Những tháng ngày còn lại báo hiệu những đám mây mù phủ kín tâm tư. Tháng 9 năm 1945, vua Bảo Đại do sự thúc ép của Việt Minh buộc phải từ chức, thoái vị và nhận chức cố vấn bù nhìn cho ông Hồ Chí Minh. Cuộc tiễn đưa cựu Hoàng ra Hà Nội đầy bất trắc rủi ro. Rủi ro về chính trị đã đành. Vậy mà rủi ro đến hạnh phúc gia đình lại là điều có thực. Những tin đồn về những cô gái Hà Nội và cả những mệnh phụ đã không thư từ mà vẫn tới Huế. Lý Lệ Hà là một trong số những người đó. Trong hồi ký của Trần Văn Đôn, ông đã nói trắng ra một mệnh phụ phu nhân đã có liên hệ bất chính với cựu hoàng là bà TVC nữa. Sự đời sao có thể éo le thế.

Trong dịp Phan Khắc Hòe về Huế, người đã bán đứng Bảo Đại, Hoàng Hậu đã
hỏi thẳng Hoè về Lý Lệ Hoa. Hoè xác nhận là có thực còn nói thêm đó là
một cô gái đẹp. Hoàng Hậu bị xúc phạm nặng nề, nhưng vẫn giữ sự im lặng
vốn có của Bà, vẫn nhờ Hòe cầm một số tiền gửi ra cho Bảo Đại chi dùng.
Chẳng hiểu Phạm Khắc Hoè và Việt Minh có dính dáng gì đến việc hủ hoá
của Bảo Đại hay không. Nào ai biết được. Những người như ông Mai Văn Hàm
đã tài trợ cho Bảo Đại ăn ở Hà Nội lẽ nào hại Bảo Đại đến thế. Nhưng
hoàng thân anh em họ với Bảo Đại không lẽ cũng có cổ phần vốn phá hoại
gia đình ông Bảo Đại chăng? Chuyện đời khó biết được.

Danh sách những người đẹp lăng nhăng với Hoàng thượng thêm dài, một cô
gái Tầu Hồng Kông, Phi Anh và nhất là Mộng Điệp.

 Không thiếu những mệnh phụ tỉ tê, xàm tấu với Bà. Bà nghe đã nhiều,
thường giữ thái độ im lặng, có thể phần không muốn nghe, phần đã quá rõ,
phần tự ái không muốn ai nhắc tới. Có thể còn muốn bảo vệ uy tín hoàng
tộc và cho cả con cái Bà. Cứ thế, Bà ẩn nhẫn chịu đòn một mình theo cái
cách của người được ăn học, ngưới có nhân cách.

Nhưng theo Daniel Grandclément, đã có lần Hoàng Hậu trong lúc phẫn chí
có ý định muôn giết Bảo Đại bằng súng và đã bầy tỏ ý định của mình với
một người bạn thân là bà Toàn quyền Decoux. Khi biết sự việc có thể trở
thành bi kịch, bà Toàn quyền đã đi xe hơi lên Đàlạt để giàn xếp giữa hai
người.. Chẳng may trên đường lên Đàlạt, bà đã gặp tai nạn xe hơi và đã
chết sau đó. Nhưng có những nguồn tin báo chí khác đã bác bỏ tin đồn
này, vì không tin bà Nam Phương có thể lại hành xử như vậy.

Bà đã tự chọn con đường của mình phải đi, từ giã vinh hoa, phú quý và
nhất là chấp nhận sự quên lãng của Hoàng thượng. Cái việc bà từ chối ra Hànội sống với Bảo Đại là bằng chứng bà không muốn xếp hàng với những
người đàn bà khác đang xun xoe chung quanh Bảo Đại.

Một biến cố quan trọng đã xảy ra trên đất nước, tiếng súng bắt đầu cuộc chiến tranh Việt Pháp vào ngày 19 tháng 12 năm 1946, ngay từ tờ mờ sáng, Bảo Long đã dời cung An định đến trú ẩn nơi nhà các cha dòng Chúa Cứu Thế, gốc người Gia nã đại. Sau cùng thì cả Hoàng Hậu và các con cũng chạy sang nhà dòng CCT. Nhà dòng dành 4 buồng cho gia đình Hoàng Gia. Trong nhà dòng gồm có 60 linh mục và tu sĩ cộng thêm 130 chủng sinh và hàng chục gia đình Việt Pháp cũng xin vào trú ẩn cùng với Hoàng Hậu Nam Phương và các con. Không có nước, không có điện, các công chúa hoàng tử đành đánh răng, rửa mặt với một ly nước mà thôi. Để tránh lộ tông tích, Bảo Long phải cắt tóc trọc đầu như các chú trong dòng.

Sau đó, vào năm 1947, Hoàng Hậu và các con đã quyết định dời bỏ nhà dòng CCT và đến trú ngụ một nơi an toàn hơn tại nhà một Giám đốc nhà băng người Pháp. Ông Fatard. Một chiếc xe hơi đã đến đón bà chạy dọc theo sông Hương, rồi đến đại lộ Clémenceau cũ, rồi đại lộ Jules Ferry. Ở đây cũng đầy người và thiếu thốn đủ thứ, chặt chội hơn ở bên nhà dòng. Tầng hầm có rất nhiều người ở và dùng những tấm màn ngăn cách giữa gia đình này với gia đình kia. Đó là cảnh thời lọan mà gia đình bà cũng phải chia xẻ với số phận đất nước.

Năm 1950, gia đình bà một lần nữa dời Việt Nam sang Pháp. Bà chọn ở Cannes trong ”lâu đài Thorenc”… Các con, nhất là Bảo Long được gửi đi học nội trú trường Trung học Roches. Bảo Long là một học sinh giỏi, thường đứng đầu lớp. Cậu rất giỏi về các môn văn chương, sinh ngữ ngay cả những sinh ngữ cổ như tiếng Hy Lạp. Nhưng có phần kém về toán và khoa học. Dầu vậy, cậu thấy khổ sở vì xa gia đình, xa các em…

Có một biến cố là hôm mồng 4 tháng ba, năm 1950, tên của Thái Tử lọt ra bên ngoài, đăng trang đầu của các báo địa phương nói tới một âm mưu bắt cóc Thái tử. Lúc đó dân chúng Pháp mới biết là có một Thái tử, con Bảo Đại ở đó. Thế là vùng Masslacq tự nhiên nhốn nháo cả lên. Hiến binh, cảnh sát đầy đường đi lục lọi từng bụi cây để tìm dấu vết… Người ta cho hay rằng có một nhóm Việt Nam có liên hệ đến những đảng tả phái cực đoan tìm cách bắt cóc Bảo Long… Tin loan truyền về đến Paris và tờ Rạng đông (L'Aurore), số ra ngày 4-3-1950 đã quả quyết là có những phần tử thân Việt Minh tìm cách bắt cóc Bảo Long làm con tin. Những kẻ định bắt cóc Bảo Long đã dùng một chiếc xe để về Cannes mà bảng số xe hơi đã bị cơ quan an ninh nắm rõ. Bảo Long lúc đó mới 14 tuổi, một học sinh nhút nhát nay hình ảnh được đăng trên hết các báo. Nhưng sau đó, các tin đồn trên xẹp như quả bóng hơi khi tờ báo Buổi Chiều (Le Soir), một tờ báo Cộng Sản xác nhận rằng toàn bộ câu chuyện chỉ là chuyện thổi phồng vô căn cứ. Tờ Le Soir đã đi điều tra và xác nhận rằng Cảnh sát ở Cannes chẳng biết gì về vụ này. Nhưng vụ này đã gây ra hậu quả nặng nề đối với Bảo Long. Xe Cảnh sát đã đến đưa cậu đi một cách bí mật khỏi trường nội trú và gửi cậu vào Tu viện dòng Benedicto Mandiran, trong vùng Brasses – Pyrénées. Ở đây, cậu hoàn toàn bị cô lập, không ai biết cậu là ai và luôn luôn có một cảnh sát bên cạnh cậu, ngày đêm được canh chừng, không được bước ra sân và cái thú vui duy nhất là đọc sách, dĩ nhiên là sách đạo đức. Sau hai tháng khổ nạn, cậu được trả về trường nội trú ít lâu, rồi lại chuyển đến một trường Roche khác ở Norrmandie. Ở đây Bảo Long đã đỗ tú tài vào năm 17 tuổi và cũng vẫn luôn luôn có một cảnh sát bên cạnh. Cậu không có bạn, chỉ có sách, không có đàn bà. Không giống cha cậu. Chán cảnh sống, lúc nào cũng bị canh chừng, cậu quyết định xin với Bảo Đại
về học trường Sĩ quan Đà Lạt vừa mới được thành lập ở Đà Lạt theo thỏa ước được ký kết giữa Bảo đại và Tổng thống Vincent Auriol. Bị từ chối và từ đó, cậu đã không bao giờ có dịp về Việt Nam nữa.

Phần Bà Nam Phương, từ năm 1950 khi sang Pháp, dòng họ Nguyễn với Bảo Đại kể như không còn ở trong mắt Bà nữa.

Năm 1950, con gái út mới 8 tuổi, ai có thể chia xẻ nỗi đau của Bà. Bà có thể làm gì được để gánh nổi cái gia tài Bảo Đại đã để lại. Bà quyết định mang các con sang Pháp, phần lo chuyện học hành của chúng là chính, phần tránh xa những nhớp nhúa của dư luận. Bạn bè cũ nay còn ai. Gần như không còn ai.

Bà ra đi, Bảo Đại càng đi xuống. Nay thì có những tôi thần như Bảy
Viễn, Phan Văn Giáo cung cấp cho ông tất cả những gì cần thiết ở đời: tiền bạc và gái đẹp. Phải chăng, ông chán ngán thế sự để buông rơi vào chỗ bê tha. Phải chăng ông chán ngán tình đời đi tìm quên đời bằng thân xác người phụ nữ. Lấy cái gì để bào chữa cho ông trong việc phẩy tay chuyện đất nước. Viết về ông thấy cả đời ông chẳng làm đuợc tích sự gì, ông chỉ làm được một điều tốt là cả đởi làm chính trị ông chẳng làm hại ai bao giờ, dù là những người đã bỏ ông như Ngô Đình Diệm và nhất là Hồ Chí Minh. Cả cuốn sách ông viết, chẳng bao giờ thấy ông hạch tội hay nặng nhẹ với những người như ông Ngô Đình Diệm. Vậy mà tôi vẫn oán giận ông, chắc là tôi không cần nói ra, ông vẫn khắc hiểu hơn ai hết. Nhưng dù sao, mọi chuyện cũng đã quá muộn rồi. Nói gì nữa bây giờ cũng vô ích.

Riêng Hoàng Hậu, tháng ngày còn lại ở bên Pháp đã từng bước, bước đến chỗ để về. Bà đã chọn chốn nới an nghỉ cuối cùng của đời bà tại Chabrignac, cách Brive-la-Gaillarde khoảng chừng 30 cây số. Một cái làng hẻo lánh với dân số chưa tới 400 người với những ngọn đồi và những căn nhà mái ngói sạm. Đó là nơi để an nghỉ, để về, về thật. Nó chẳng có chút dấu vết gì của Cannes hay Đà Lạt, ngoại trừ vài cây thông như núi rừng Đà Lạt. Bà đã chán thế sự, chán cái đời sống của một gia đình Hoàng Gia với những lễ nghi, những thù tiếp. Chán tất cả. Bà đã mua một dãy nhà bằng đá, dựa vào lưng chừng đồi nhìn ra quang cảnh đồng quê trải ra với những cánh đồng ruộng và ao hồ… Khác với chồng bà ăn tiêu xài phí, túi lúc nào cũng nhẵn. Bà có một sản nghiệp riêng như ở Neuilly, nhà cửa ở Maroc, một căn nhà ở đại lộ Opéra, một lãnh địa ở Congo và những đồ vật quý giá. Tất cả những chi tiết viện dẫn này chỉ được viết ra một cách dè dặt, vì chẳng dễ gì, người ta có thể biết được đích xác những tài sản của bà.

Lãnh địa Chabrignac gồm 160 mẫu đất và hằng trăm bò sữa. Căn nhà gồm 32 phòng, 4 buồng khách.. Bà có vẻ thích hợp với nơi ở mới này. Những người phục dịch nhớ lại bà tươi cười, ca hát và ham sống khác hẳn trước. Ba tự đi mua sắm một mình trên chiếc xe Dauphine luôn luôn có một người đàn bà hầu cận. Tất cả những người phục dịch cũng như 4 người nhà nông đều được bà quý mến, quà cáp. Bảo Đại có đến đây 3 lần trong suốt 5 năm trời Bà ở đây.

Điều trớ trêu của lịch sử đến kỳ diệu là cũng ở đây là nơi cư ngụ của hai nhân vật nữ hàng đầu của Việt Nam: Hoàng Hậu Nam Phương và công Chúa Như Lý, con vua Hàm Nghi. Thời trẻ, công chúa theo vua cha bị đầy sang Algérie rồi sau đó về cư ngụ ở đây. Nhưng hai bà không có giao thiệp với nhau.

Tuy vậy mỗi ngày, mỗi năm tháng cứ héo mòn đi như cái cây không có nước, cứ ủ rũ cho đến lúc tàn lụi. Ngày một, ngày hai, mỗi ngày vẫn phải chạm chán với cuộc sống thực bên ngoài và nỗi cô đơn bên trong. Nổi cô đơn từ mọi phía, nỗi cô đơn cả đời. Đến như tôi có thể dám thốt ra lời này: Chỉ nhìn con mắt, cảm nghiệm được đời bà là một niềm cô đơn. Đừng ai hạch hỏi tôi tại sao nói thế ?

Tháng ngày vẫn trôi qua, dần dần những trông đợi thù đáp nơi người, niềm hy vọng có ngày trở lại bị xói mòn sẽ dấy lên những câu hỏi về cuộc đời, về cớ sự đa đoan, về tình người và cuối cùng về tình vợ chồng.

Ngày 13 tháng 9 năm 1963, bà từ Brive trở về thấy đau cổ. Hôm sau, bà thấy khó thở. Những người bồi phòng kêu bác sĩ tới, nhưng không có ai. Bà cứ thế thở dốc lên, mệt nhọc như tắc thở. ( Bà vốn bị bệnh suyễn nặng ). Cảnh sát, lính cứu hoả đến làm hô hấp nhân tạo. Nhưng đều quá trễ. Bà chết nghẹt thở vào lúc mới có 49 tuổi. Bà sống cô đơn thế nào thì mất im lặng như thế ngày 14-9-1963 tại làng Chabrignac. Bên cạnh chỉ có hai hoàng tử và ba công chúa sau mới về. Thực sự chỉ có hai người giúp việc bên cạnh lúc Bà mất.

Ici repose l!impératrice d!Annam née Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Hào

Ngôi mộ của Bà ở một nghĩa địa nhỏ, gần như bị che lấp bởi những ngôi mộ đồ sộ khác có ghi bằng tiếng Pháp: ” Nơi đây an ngh Hoàng Hậu Annam, tự Jeanne Mariette Nguyễn Hưũ Hào” ( Ici repose l'impératrice d'Annam née Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Hào ).

Đặc biệt trong buổi lễ , có bà Công Chúa vừa là hàng xóm, vừa là bà con với Hoàng Hậu mà trong năm năm, họ chưa hề bao giờ gặp nhau.

Phần đời Bà, còn rất nhiều điều chưa được sáng tỏ còn nằm trú ẩn trong vùng bóng tối của đời Bà. Nhưng phải chăng chính cái phần bóng tối này lại là nơi trú ẩn an toàn nhất mà Bà muốn giữ lại đem về bên kia thế giới.

 Và nếu thực sự như thế thì chúng ta chỉ còn biết tôn trọng ý nguyện của Bà và phải chăng Bà đã ra đi và không còn gì để nhắn gửi và nói lại nữa. Một ngôi sao đã đổi ngôi. Số phận Bà có gì trùng hợp với phận người phụ nữ nói chung. Có lẽ cần suy nghĩ thêm vẫn chưa muộn.

admin