Ông Cường cũng cho rằng không nên nghi ngờ về tính “dàn dựng” phi thực tế của bộ ảnh này bởi chúng được xây dựng trên tinh thần dân tộc học rất rõ nét. Tuy nhiên, chính vì thế, bên cạnh tính tư liệu, nó không tránh khỏi cái nhìn về người Việt Nam như một dân tộc lạc hậu.
Phu kéo xe
Tắm ao
Cũng đánh giá cao tính chân thực của các tác phẩm trong triển lãm, nhà nhiếp ảnh Hữu Bảo nhận xét: “Những bức ảnh ở đây thể hiện rất rõ tâm thế của một “nước lớn” khi tiếp cận những thông tin lý lịch bằng hình ảnh của các thuộc địa của mình. Với những tấm bưu thiếp đẫm ý thức quảng bá du lịch, người xem sẽ hiểu, xứ chồng con mình đang sống là như thế này”.Các tác phẩm được chụp bởi những tay máy chuyên nghiệp và điều quan trọng là họ rất tôn trọng văn hoá. Chẳng hạn, nếu như rất nhiều người có thể sẵn sàng bạ đâu chụp đó, đặt ngay một chiếc bình cổ xuống đất để chụp thì với những nhiếp ảnh gia chưa biết tên này, họ sẽ đặt nó trên một mặt bàn trang trọng tương xứng với đồ vật. Xem ảnh để thấy rằng đôi khi với vốn kiến thức và ý thức ít ỏi, chính chúng ta tự hạ bệ văn hoá của chúng ta. Tất cả rất chân thực”. Về ý thức “sắp xếp chân thực” mà ông Bảo nhắc tới, có bộ ảnh học thêu có bức chụp mấy chục người xếp thành nhiều hàng từ cao xuống thấp, trên tay cầm khung thêu. “Trên thực tế, chẳng ai ngồi như vậy để học thêu cả, song nó cho ta hình dung rõ một trường học thêu có thể có bao nhiêu học viên, và khi tới trường họ ăn vận thế nào”, ông Bảo nói.
Bài báo đưa ra giả thuyết về những người được chụp trong ảnh:
Thời đó hãng xuất bản thường đưa ra một serie những bức bưu thiếp ảnh na ná như nhau, đôi khi chỉ khác một chút về góc máy hay khoảnh khắc chụp. Trong những bức ảnh này có thể thấy mức độ “tân thời” (hiện đại hoá) theo thời gian của những người mẫu qua trang sức như vòng cổ, vòng tay, nhẫn họ đeo.
Khuôn mặt nô lệ buồn bã, chịu đựng của tấm hình số 2 cũng vậy, nó thuần túy một tấm hình khoả thân trần trụi không một nét nghệ thuật văn hoá nào cả.
Chiếc áo yếm nô lệ này không có nét hấp dẫn nửa kín nửa hở nào như các nhà phê bình ngày nay hay ca tụng vẽ vời đầy rẫy trên các trang web. Nó chỉ mang một tính lịch sử đau đớn của tổ tiên ta mà thôi.
Tôi rất ngạc nhiên gần như shốc khi thấy các tấm hình này và tự hỏi không lẽ các bậc phụ nữ tổ tiên ta ngày xưa hở hang đến thế sao. Trong khi từ bé mẹ tôi răn dạy tôi rằng: “Con gái phải kín đáo, áo mặc chớ hở hang, đi đứng nhẹ nhàng khoan thai, ngồi thì khép chân lại, lúc nào cũng phải giữ ý tứ”.
Hỏi lại thì mẹ tôi trả lời thế này. Thời bà ngoại tôi sống, lúc đó chưa có áo ngực (su chiêng) thì mặc áo yếm nhưng áo yếm chỉ là áo lót, bên ngoài phải mặc áo ngắn, áo cánh hay áo dài. Khó khăn hơn thì phải bịt chặt ngực lại hay nén ngực chứ không phải hớ hênh vậy đâu. Thời Pháp thuộc, người dân ai cũng sợ lính Tây lắm nhất là lúc chúng qua làng đi ruồng bố. Mẹ kể, em gái của mẹ khi đó gánh hai gánh phân đi trên đường làng, tụi Tây thấy la “gái gái” và ào tới lột quần áo cưỡng hiếp cô (mặc cho phân rơi rớt) ngay trên đường làng trước mắt bao nhiêu người mà không ai dám can thiệp. Do đó việc chúng bắt phụ nữ cởi truồng hay trần cho chúng chụp hình là chuyện thường tình.
Bố tôi thì kể thêm về cái yếm như thế này. Gia đình bên mẹ tôi khá giả nên còn có áo mặc ra ngoài chiếc yếm, còn bên bố tôi hồi ấy nghèo quá. Bà nội tôi chỉ có độ một, hai cái áo thôi lại còn bị vá chùm, vá đụp. Bà thường thường chỉ có mặc yếm ra đồng làm việc mà cất chiếc áo đi sợ rách, sợ khi thời tiết trở lạnh, không có áo mà mặc. Năm Ất Dậu, nạn đói tràn lan vì chính sách thâm hiểm của Nhật – Pháp nhằm dồn cả một dân tộc vào thảm họa diệt chủng. Bố tôi đi làm phu lục lộ không đủ tiền mua thực phẩm cho cả gia đình. Bà chịu hy sinh nhịn đói mà chết, để nhường miếng ăn cho chồng, cho con. Mỗi lần nhớ tới bà, bố tôi lại rơi nước mắt ân hận không nuôi nổi mẹ phải để mẹ chết vì thiếu ăn.
Qua câu truyện trên, tôi biết thêm là người phụ nữ nhà quê thời ấy vì nghèo không đủ quần áo nên phải mặc phong phanh chiếc yếm không như vậy (nhưng rất kín đáo, che hai bầu ngực), chứ không phải vì đó là một thứ “văn hoá phồn thực” vượt ra ngoài vòng rào nho giáo như ông Lê Cường, hội viên hội Khoa Học Lịch sử phát biểu.
Nếu xét theo văn hoá truyền thống, phụ nữ Việt Nam thời ấy ăn mặc rất kín đáo, trong lệnh vua phép nước cũng có ghi chép rõ ràng. Theo tài liệu sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, dưới thời các chúa Nguyễn, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã ban hành sắc dụ về ăn mặc cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong. “Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở….”. Riêng tại Kinh đô Huế, nơi luật lệ thực thi nghiêm ngặt, đàn bà ra đường thường mặc áo dài kể cả lúc đi bán hàng rong. Tục lệ này còn lưu giữ cho tới bây giờ.
Nếu xét theo thực chứng, chúng ta xem thêm rất nhiều những bức hình chụp cảnh dân cư Hà Nội lúc đó, ta thấy phụ nữ ăn mặc rất đàng hoàng, kín đáo thậm chí đến nỗi bít bùng hai ba lớp nữa kia. Chỉ có vài ba tấm hình phụ nữ ở trần này nằm lẫn lộn vào gây ấn tượng mạnh làm bẻ cong sự thật.
Khi tôi viết bài này, qua những email truyền đi trên mạng thì tôi và bạn bè tôi, hầu hết ai cũng nhận được các bức hình khoả thân với tựa đề “Hình ảnh phụ nữ VN khoả thân của đầu thế kỷ trước” được phát tán và lưu hành khắp nơi. Loạt hình đó, theo lối sắp xếp dàn dựng cảnh và người thì ai cũng đoán ra cùng một nhiếp ảnh gia là tay chơi thích chụp những hình ảnh khiêu dâm. Trong bộ sưu tập ảnh hoàn toàn khoả thân này có vài ba tấm hình hở ngực đã được đem ra trưng bày trong buổi triển lãm vừa qua. Tôi còn lưu giữ những tấm ảnh này nhưng chỉ đưa ra ba tấm ảnh hở ngực còn những tấm kia hoàn toàn trần trụi và mang đầy vẻ dung tục.
Theo tôi, việc đem những tấm ảnh hở ngực trưng bày chen lẫn với những tấm ảnh và bưu thiếp đứng đắn về Hà Nội xưa dễ làm người xem lầm lẫn. Điều tai hại là hậu ý tạo nên cái nhìn sai lạc về một văn hoá và lịch sử của một dân tộc. Ai xem xong cũng tưởng thời ấy phụ nữ Việt ta bệ rạc bên bàn hút, nhếch nhác thả ngực trần như vậy kể cả lúc quang gánh lao động.
Điều đau lòng hơn là người Pháp đã dùng những tấm hình ngực trần ấy làm bưu thiếp. Ngày ấy bưu thiếp rất phổ thông và đa dụng. Người ta xử dụng bưu thiếp với nhiều mục đích như phát triển nghệ thuật, thương mại như du lịch và chính trị như truyền bá một tư tưởng nổi loạn hay hình ảnh một lãnh tụ. Nếu việc khai thác chiếc yếm bỏ ngỏ như một ý đồ chính trị, người Pháp đã dùng những tấm bưu thiếp này lăng nhục phụ nữ Việt Nam như một dân tộc thuộc địa mọi rợ. Nó cũng có tác dụng lôi cuốn đàn ông Pháp càng thấy thích thú hơn trên con đường nhập ngũ viễn chinh qua Việt Nam.